Chlormequat Chloride có khả năng kiểm soát sự đâm chồi của cây, thúc đẩy sinh sản, sinh trưởng, rút ngắn lóng cây làm cho cây ngắn lại và phát triển, mạnh, dày bộ rễ. Khả năng chống trú, làm sâu màu lá, dày lá, tăng hàm lượng diệp lục, tăng cường tỷ lệ quang hợp, tăng tỷ lệ đậu trái, nâng cao năng suất.
- Tên khác: Cycocel, Choline Chloride, CCC
- Tên hóa học: 2-chloroethyl trimethyl ammonium chloride
- Số CAS: 999-81-5
- Số EINECS: 213-666-4
- Tính chất hóa lý: Chlormequat tinh khiết là tinh thể màu trắng, mùi tanh, hòa tan với rượu. Khó hòa tan trong ete. hòa tan ít trong dung môi hữu cơ hydrocacbon. Dạng bột hấp thụ độ ẩm dễ dàng.
- Phân hủy 238-242℃, dễ hòa tan trong nước
- Độc tính: Theo tiêu chuẩn phân loại độc tính của Trung Quốc, chlormequat là một loại cây có độc tính thấp.
- Phân loại: Chất làm chậm tăng trưởng thực vật
- Xuất xứ: Trung Quốc
- Chlormequat đối kháng với axit gibberellic, kiểm soát sự đâm chồi của cây, thúc đẩy sinh sản, sinh trưởng, rút ngắn lóng cây, làm cho cây ngắn lại và bộ rễ phát triển, mạnh, dày. Khả năng chống trú, làm dày lá, tăng hàm lượng diệp lục, tăng cường tỷ lệ quang hợp, tăng tỷ lệ đậu trái, nâng cao năng suất.
- Vì vậy: Cây trồng khác nhau với các phương pháp ứng dụng khác nhau, bao gồm hạt giống, phun, tưới, vv để đạt được hiệu quả mong muốn.
1. Chlormequat là chất điều hòa sinh trưởng thực vật có hoạt tính cao, khả năng sinh sản kém, không sử dụng chlormequat nếu tăng trưởng không mạnh.
2. Làm theo hướng dẫn để đạt hiệu quả và tránh tổn hại
3. Không trộn với các chất kiềm
4. Nên bón sau 4 giờ chiều, không nên làm ẩm lá, chảy xuống, có thể làm tăng thời gian hấp thụ của lá và không bị lãng phí
- Ứng dụng của chất ức chế sinh trưởng đối với cây lúa: Hạn chế tình trạng đỗ ngã vào mùa mưa khi sắp đến mùa gặt, gây tổn thương không nhỏ cho bà con, nhất là đối với đồng bằng Bắc Bộ thường xuyên mưa bão. Khi phun chất ức chế sinh trưởng CCC cây lúa được phun lùn hơn khoảng 30% so với không xử lý, cây lúa gần như không bị ngã do giông gió ngày gặt và đặc biệt hạt gạo xay ra bóng đẹp hơn, năng suất tăng thêm 20 - 30% tùy theo giống lúa. Thực tế và liều lượng như sau:
- Ứng dụng chất ức chế sinh trưởng CCC đối với cây có múi: Đồng bằng sông cửu long là vựa trái cây của miền nam, đặc biệt là cây có múi. Riêng đối với cây buổi da xanh, cam,.... xử lý trên vườn bưởi tơ, thấy hiệu quả rõ nét. Chiều cao cây thấp hơn, nhánh non nhảy đều, cây tạo dáng cân đối, thân cành cứng cáp hơn, ít bị gãy khi gió lớn hay giông bão, giúp cây tập trung ra hoa, phát triển trái, có thể rút ngắn thời gian sinh trưởng đến 6 tháng so với vườn không được sử lý mà không làm ảnh hưởng đến cây trồng
- Ứng dụng chất ức chế sinh trưởng đối với cây cảnh, cây bonsai: Đối với người chơi bonsai, CCC là trợ thủ đắc lực với tính năng ức chế sinh trưởng mạnh nên khi các bonsai được tạo dáng thành công, xử lý CCC đều giúp người chơi bonsai yên tâm là cây cảnh được giữ dáng nghệ thuật theo thời gian. Giúp cây cảnh, bon sai có vẻ đẹp già cỗi và cổ hơn.
- Ứng dụng đối với một số loại hoa (phong lữ, dạ uyên thảo, cẩm chướng, lay ơn...): Làm giảm chiều cao cây, hạn chế hoa mọc vống, phân cành tốt, ra hoa nhiều, hoa kéo dài, số lượng hoa trên ngồng nhiều hơn.
Các bạn có thể đặt mua ngay bây giờ tại mục đặt hàng hoặc liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0336.180068 để nhận được tư vấn và báo giá Chlorormequat Chloride, Cycocel CCC 98% TC nguyên chất rẻ nhất.
- Loại bỏ thiệt hại do "sốt hạt", khi nhiệt độ của hạt vượt quá 40℃ và kéo dài 12 giờ, rửa bằng nước sạch trước, sau đó ngâm hạt giống trong 250mg/kg chất lỏng trong 48 giờ. Nên ngâm hạt giống, sau khi làm sạch chất lỏng, nảy mầm ở 30 ℃,
- Giai đoạn lúa trổ đòng sớm, pha loãng 300 lần 50% AS (1600ppm) phun toàn bộ cây, làm cho cây bị lùn, kháng sâu, hạt mập mạp và tăng sản lượng.
- 50% dung dịch nước pha loãng 80-100 lần, nên cho ngập hạt, gieo sau khi phơi khô, cây lùn, bộ rễ phát triển, chiều cao cành thấp hơn, đầu không lép, to. Đâm chồi và đầy hạt, tăng năng suất đáng kể. Ở giai đoạn gieo hạt, phun 50kg mỗi mẫu
- Với 0,2-0,3 chất lỏng, có thể làm cứng hạt giống, chống mặn và hạn hán, năng suất tăng lên khoảng 20%. Sử dụng 1000-3000ppm/L chất lỏng, 3-5 ngày trước khi nối, phun 30-50L/mẫu trên lá, lóng ngắn, chiều cao cành thấp, khả năng chống bám, để lại ngắn và rộng, tăng quang hợp, giảm đầu lép hạt, tăng tỷ lệ tai kép, tăng khối lượn hạt và tăng năng suất.
- Khoảng 35 ngày sau khi gieo, phun 50kg/mẫu Anh với 500-2000mg/kg chất lỏng, làm cho cây lùn, dày thân, lá xanh đậm, dày lá, khả năng chống đổ, trọng lượng bông và khối lượng hạt tăng, năng suất tăng rõ rệt. Ở giai đoạn nối của lúa miến, 400mg/kg chất lỏng được phun ở bề mặt lá, 50kg mỗi mẫu Anh, chống úng, làm chín sớm cao lương, để ngăn ngừa hoặc giảm thiệt hại do sương muối, tăng năng suất.
- Đối với khoai tây có biểu hiện tăng trưởng nhanh từ giai đoạn chồi đến khi ra hoa, phun 40kg chlormequat pha loãng với nồng độ 2000-2500mg/kg trên 667m2. Nó có thể trì hoãn hiệu quả sự phát triển của thân và lá, làm cho cây nhỏ gọn, màu xanh đậm, tăng năng suất, tăng tỷ lệ củ to.
- Một tháng sau khi trồng phun 2500mg/kg phun trên 50kg mẫu Anh để kiểm soát sự phát triển của cây khoai tây và tăng năng suất 15-30%. Trong quá trình mở rộng củ trong thời gian này, việc sử dụng chlormequat có thể ức chế sự phát triển của một số thân khoai lang trên mặt đất. Rút ngắn 14,2%, cây khoai nhỏ, khỏe. Khả năng quang hợp của lá mạnh hơn so với nhóm đối chứng, làm tăng tỷ lệ chất khô
-Trước khi cấy cây bông, phun lá 50mg/kg chất lỏng hoặc trong thời kỳ cây con một lá và một giai đoạn, kết hợp với luống nắng, chọn buổi trưa nắng, phun đều 10-20mg/L dung dịch, che phủ kịp thời với phim cách nhiệt sau khi sương khô nhỏ giọt. Nó có thể làm cho nút thân cây bông ngắn và dày, hệ thống rễ phát triển và thu được hiệu quả tốt hơn của cây con ngồi xổm. Sử dụng một giai đoạn cũng có thể làm cho cây bông ngắn trở nên cứng cáp và mập mạp.
- Lưu ý: khuyến khích sử dụng 25kg dung dịch 10-20mg/L trên 667M2, 20-30mg/kg ở giai đoạn nụ và 30-40mg/kg ở giai đoạn ra hoa đầu tiên và 40-50L trên 667 m2. Ở tâm trên cùng có thể làm chậm sự phát triển chiều cao của cây bông, loại cây lùn và thúc đẩy sự phát triển của rễ ngầm, giảm sự rụng quả, tăng số quả trên mỗi cây và tăng năng suất 10% -20%.
- Ngâm hạt với 10-20mg/kg chất lỏng trong 6-12 giờ. Chất lỏng nên được sử dụng để ngâm hạt ở nơi mát và gieo sau khi vỏ hạt nhăn, thúc đẩy đẻ nhánh và tăng số lượng quả. Bón dung dịch thuốc 100-200mg/kg đến 50kg mỗi mẫu Anh ở giai đoạn ra hoa đầu tiên, có thể làm lùn, thúc đẩy sự phân nhánh và tăng trưởng số quả.
- Dung dịch thuốc 1000-2500mg/kg phun 50kg/mẫu vào giai đoạn ra hoa để ức chế phát triển quá mức, thân cứng, hạt khô giảm, khối lượng hạt tăng và năng suất tăng khoảng 13,6%. Nồng độ nên nhỏ hơn 2500mg/kg.
- Ở giai đoạn 3 cặp lá thật phun dung dịch 30mg/kg phun 2 lần (cách nhau 7 ngày) để giảm chiều cao cây, hạ thấp vị trí nang, làm cây lùn, dày chỗ ở, mật độ nang ngắn, tăng số lượng nang, khối lượng hạt và tăng năng suất khoảng 15%. Phun toàn bộ cây với dung dịch 60mg/kg trước khi ra hoa cuối cùng để cải thiện hàm lượng diệp lục và quá trình quang hợp, thúc đẩy quá trình chuyển hóa cacbon và tăng protein.
- Khi chồi mới phát triển đến 15 - 40cm, phun 500mg/kg chất lỏng có thể thúc đẩy sự phân hóa chồi đông trên cây nho chính.
- Lưu ý: Tác dụng tăng lên khi tăng nồng độ, nhưng không quá 1000mg/L. Nếu nồng độ cao hơn 1000mg/L, mép lá nho sẽ chuyển sang màu xanh lá cây và màu vàng. Nếu nồng độ cao hơn 3000mg/L, tổn thương lâu dài và sẽ không dễ phục hồi, do đó cần chú ý sử dụng nồng độ. các giống nho khác nhau có tác dụng khác nhau đối với việc kiểm soát chồi và các yếu tố mạnh. Vì vậy nồng độ thích hợp nên được chọn tùy theo giống và điều kiện tự nhiên.
- Giữ tươi với 60mg/kg lỏng, nồng độ thấp cho nhiệt độ cao, cao nồng độ cho nhiệt độ thấp. Sau khi lá rau diếp đã phát triển hoàn toàn, sử dụng 350mg/L chất lỏng cho phun lá 5-7 ngày một lần, tổng cộng 2-3 lần để giúp thân xà lách cứng cáp và cải thiện chất lượng thương mại và sản lượng.
- Trong 10 ngày trước khi nhổ bắp cải, sử dụng 4000 - 5000mg/kg chất lỏng, phun 50kg thuốc dạng lỏng cho mỗi mẫu đất, có thể ức chế rêu khai thác hiệu quả.
- Đối với cây có xu hướng phát triển quá mức, phun 20 - 25mg/kg chất lỏng vào giai đoạn ra hoa đầu tiên có thể kìm hãm sự phát triển của thân và lá, làm cây bị lùn và dày, lá có màu xanh đậm, tăng cường khả năng chịu hạn, chịu rét.
- Ớt có xu hướng phát triển quá mức, phun 20 - 25mg/kg chất lỏng vào giai đoạn ra hoa đầu tiên có thể kìm hãm sự phát triển của thân và lá, làm cây bị lùn, lá có màu xanh đậm, tăng cường khả năng chịu hạn, chịu rét.
- Phun với lượng 100-125mg/kg vào các bầu quả thúc quả ớt chín sớm
- Giai đoạn ra hoa ớt phun 4000-5000mg/L chất lỏng giúp cây con khỏe thúc chín sớm, tăng sản lượng.
- Khi nở được 3-4 lá thật, dùng 100-500mg/kg dung dịch phun để làm khô lá, cây lùn và khỏe, nhiều hoa cái, tỷ lệ đậu trái cao, ra hoa sớm, thu hoạch sớm, tăng năng suất. Khi 14-15 lá phun 50 đến 100mg/kg chất lỏng có thể thúc đẩy quá trình đậu trái và tăng năng suất.
- Đất được tưới 20-500mg/L chất lỏng, mỗi cây cho 100-200ml chất lỏng. Sau khi xử lý, cây phát triển chậm, lá xanh đậm, cây ngắn hơn và lá dày hơn, điều này có lợi cho việc ra hoa và kết trái, tăng chống hạn và chống rét.
- Trước tháng 7 chồi mới phun dung dịch lần lượt 2000-3000 lần 69,3%. lỏng trong 1-3 lần, có thể ức chế sự kéo dài của chồi mới, thúc đẩy sự trưởng thành của lá, phân hóa chồi hoa sau khi chồi mới ngừng phát triển.
- Nói chung: chồi hoa sự phân hóa hoàn thành 30-45 ngày sau khi chồi mới ngừng phát triển.
- Sau khi ra hoa, phun 500mg/kg hai lần (cách nhau 2 tuần) hoặc 1000mg/kg một lần để kiểm soát tăng trưởng chồi mới giúp cải thiện số lượng hoa và tỷ lệ đậu trái trong năm thứ hai.
- Khi phần dưới đất bắt đầu nở ra, nên phun toàn bộ cây với dung dịch thuốc 500-1000mg/kg để thúc đẩy tăng kích thước củ và tăng sản lượng. Cà rốt bắt rêu, phun 40-50L mỗi mẫu Anh với 4000-8000mg/L chất lỏng, có thể ức chế rêu bắt, ra hoa, nâng cao năng suất và nâng cao chất lượng.
- Trong quá trình nuôi ô, do quá trình hô hấp và nảy mầm, hàm lượng đường sẽ bị giảm và thối. Xịt 0,1-0,3% dung dịch thuốc cho 100kg củ dền lượng đường mất đi có thể giảm từ 30 - 40%.
- Phun 250mg/kg chất lỏng vào cuối tháng 9 có thể thúc đẩy quá trình phát triển của cây chè bị chậm phát triển và tạo điều kiện cho mùa đông. Năm thứ hai, chồi mùa xuân mọc
- Tác dụng: tăng trọng lượng củ và tăng sức đề kháng lưu trữ
- Phun toàn bộ cây với 1000-2500mg/kg chất lỏng trước khi thu hoạch 6 tuần,
- Tác dụng: Có thể ngăn ngừa sự tồn đọng, thúc đẩy xới đất và tăng lượng đường.
- Sử dụng 100-500mg/kg phun để kiểm soát sinh trưởng, chống hạn, chống rét và tăng sản xuất
- Trước khi gieo, ngâm hạt với 500mg/kg chất lỏng để cải thiện tỷ lệ nảy mầm ở nhiệt độ thấp.
- Giai đoạn gieo hạt: Để ngăn chặn sự phát triển quá mức, nuôi cấy cây con Khỏe mạnh, phun 250 - 500mg/kg/m2 luống với 1kg chất lỏng.
- Môi trường nuôi cấy không đất: sử dụng 20mg/kg chất lỏng. Tốt nhất nên được tưới nước và sử dụng để tránh tiếp xúc với cây đã qua xử lý.
- Tưới nước vào đất: ở giai đoạn 3-4 lá sau khi áp dụng, có thể ức chế sự thúc đẩy của cây con xuống, mạnh mẽ, cây con sau sớm xanh, tồn tại nhanh.
- Sử dụng 4000-5000mg/L chất lỏng phun lá, cây con khỏe, thúc chín sớm
- Phun 50kg mỗi mẫu Anh với dung dịch 4000-5000mg/kg 10 ngày trước khi có bông (rêu). có thể ức chế bông (rêu)
- Sử dụng dung dịch 125-500mg/kg, ngâm phần gốc, có thể trì hoãn sự phai màu diệp lục.
- Trước khi ra hoa, sử dụng 50% AS 6-8g/mẫu Anh hoặc 5000 lần chất lỏng, phun qua lá, có thể thúc đẩy phát triển hoa cái, nâng cao năng suất.
- Trước khi phân hóa mầm hoa, 1000mg/L dung dịch được phun ba ngày một lần, tổng cộng 5 lần. Áp dụng 1000-2500mg/L dung dịch trong giai đoạn đầu của quả có thể chống lại hàm lượng cao của hormone thúc đẩy tăng trưởng trong vỏ và làm giảm sự thô ráp của da.